Giải phâu thần kinh

Download
GIẢI PHẪU THẦN KINH
Cấu Trúc Thân Thể
Để hiểu được con đường xuất hiện cơn đau hàm mặt, cần phải hiểu được cấu trúc cơ bản bao gồm sự truyền tải tới trung tâm não. Các cấu trúc vùng hàm mặt có thể được phân chia thành hai loại: cấu trúc thân thể và cấu trúc thần kinh. Các cấu trúc thân thể là các cấu trúc mô và cơ quan không có thần kinh. Các cấu trúc thân thể có thể được phân chia theo giải phẫu là cấu trúc nông hoặc sâu. Các cấu trúc nông bao gồm da, niêm mạc, và loại cơn đau từ các cấu trúc nông thường được định vị dễ dàng. Các cấu trúc sâu bao gồm mô cơ xương và mô nội tạng. Cơn đau từ các cấu trúc sâu thường khó định vị và ở dạng lan toả.
Cấu Trúc Thần Kinh
Cấu trúc thần kinh bao gồm các cấu trúc điều phối hướng tâm và ly tâm. Sự dẫn truyền kích thích thần kinh từ các cấu trúc hàm mặt tới não thông quan hệ thống thần kinh ngoại vi, trong khi đó việc điều chỉnh và can thiệp các kích thích này để chúng ta cảm thấy cơn đau xuất hiện trong hệ thống thần kinh trung ương. Cơn đau có thể độc nhất ở mô thần kinh trung ương và ngoại vi nhưng cơn đau khác chỗ, thường bao gồm cơn đau răng không do răng, đòi hỏi có sự điều chỉnh trung tâm để xuất hiện.
Hệ Thống Thần Kinh Ngoại Vi
Cơn đau xuất hiện là kết quả của một tổn thương mô, hoặc tiềm tàng của tổn thương mô, và được truyền tải thông qua tận cùng các sợi dây thần kinh được gọi là các sợi dây thần kinh hướng tâm. Hai dạng chính của các sợi thần kinh hướng tâm sơ khởi cảm thụ đau có thể phát hiện các kích thích nguy hiểm tiềm tàng tổn thương: dây A-delta và dây C.
Hai dạng sợi thần kinh này có sự phân bố rộng khắp thông qua da, niêm mạc miệng và tuỷ răng. Bên cạnh đó, các dạng phân biệt của sợi thần kinh bao gồm việc nhận biết các kích thích không nguy hại như rung hay nhạy cảm định hướng. Các sợi này có thể tìm thấy trong dây chằng nha chu, da, và niệm mạc miệng, bao gồm cả các sợi A-Delta .
Các Nơ Ron Hướng Tâm Sơ Cấp
Phát hiện và mã hoá các kích thích độc hại cho vùng hàm mặt được thực hiện đầu tiên bởi dây thần kinh sinh ba hoặc dây thứ năm. Phần lớn các thân tế bào của sợi thần kinh sinh ba nằm trong hạch sinh ba định vị ở sàn hố não giữa. Các axon ngoại vi của hạch sinh ba chạy theo ba hướng- dây mắt (V1), hàm trên (V2) và hàm dưới (V3)- chi phối hầu hết niêm mạc miệng, khớp thái dương hàm, 2/3 trước của lưỡi, lá cứng của hố sọ giữa và trước, tuỷ răng, lợi và màng nha chu.
Trong hệ thống thần kinh ngoại vi, các nơ ron này hoặc dây thần kinh được coi như các sợi hướng tâm. Các sợi hướng tâm được chia ra thành các sợi A-Beta, truyền thông tin các động chạm nhẹ hoặc định hướng, và sợi A delta và C mã hoá cơn đau. Răng có nhiều sợi dây thần kinh hướng tâm, truyền các cơn đau chính như kích thích nhiệt, cơ học, hoặc hoá học. Hầu hết các dây thần kinh răng là dây C chi phối tuỷ, và nguyên bào răng.
Sợi A-Beta là nơron có bao myelin truyền dẫn nhanh, vận tốc nhanh hơn sợi C, và truyền các cảm giác đau nhói. Sợi A-delta chịu trách nhiệm đáp ứng với các kích thích cơ học nguy hiểm hơn là các kích thích nhiệt hay hoá học. Các sợi A-delta có thể đa năng (đáp ứng với kích thích cơ học, hoá hay nhiệt) hoặc chỉ đáp ứng với kích thích lạnh/cơ học hoặc nóng/cơ học
Trong tuỷ răng, các sợi A-delta xuyên qua các lớp nguyên bào răng và kết thúc tại các ống ngà. Do vị trí và khả năng nhạy cảm với các kích thích cơ học của chúng, các sợi A-delta được cho là đáp ứng với các dòng chảy trong lòng ống ngà (ví dụ: sự thẩm thấu, thăm dò cơ học hoặc kích thích nhiệt ở bề mặt ngoài của răng).Trùng với cơ chế đau ngà ở khía cạnh kích thích gây ra sự chuyển động dịch ngà tạo ra các cơn đau nhói kết hợp với kích hoạt các sợi A-delta. Khi các kích thích độc hại có cường độ dữ dội kích hoạt các sợi A-delta, dữ liệu nhập vào hệ thống thần kinh trung ương sẽ có tỉ trọng hoạt động tần suất cao
Sợi C
Các sợi C không có bao myelin, có gia tốc dẫn truyền chậm hơn và thường kết hợp với các cảm giác đau nhói âm ỉ hoặc bỏng rát. Hầy hết các sợi C đa chức năng, phản ứng lại với các kích thích về hóa học, nhiệt học hay cơ học. Do sự khác nhau về gia tốc dẫn truyền, các sợi A delta được tin rang có khả năng dẫn truyền các cơn đau mạnh, sớm trong khi đó sợi C dẫn truyền các cơn đau chậm, âm ỉ. Các kích thích độc hại tiếp cận các bộ nhận ở các đầu nhạy cảm tận cùng sơ cấp, tạo ra hoạt động dẫn truyền về trung tâm, báo động tổn thương mô. Ở mô tủy, các sợi C đáp ứng các kích thích hóa, nhiệt, cơ học và được cho rằng chúng nhạy cảm với viêm nhiễm. Tất cả các cấu trúc thân được phân bố thần kinh sơ cấp bởi các sợi nhận (afferent) dẫn truyền các thông tin nhạy cảm trên sợi A-delta hoặc sợi C.
Hệ Thống Thần Kinh Trung Ương
Cac sợi nhận hay đến sơ cấp chịu trách nhiệm dẫn truyền và cung cấp thông tin cảm giác tới các trung tâm đầu não cao hơn và chúng thực hiện nhiệm vụ của mình bằng các synap trên nơ ron thần kinh, tọa lạc trong nhân sinh ba, từ đây dẫn truyền đến trung não và tủy sống. Điều này đánh dấu sự bắt đầu của hệ thống thần kinh trung ương và tại đây chính là nơi thông tin đau bắt đầu (Quan sát hình ảnh).
 Hình minh hoạ đau được quy chiếu từ một vùng có phân bố thần kinh là (C2) tới vùng phân bố thần kinh khác (V2). Nhậnthấy răng hiện tượng này xuất hiện thứ cấp với sự hội tụ các nơ ron khác nhau trên cùng một nơ ron lệnh thứ cấp của nhân sinh ba. Vỏ não cảm giác nhận thức được 2 vị trí đau. Một là vùng hình thang thể hiện nguồn gốc cơn đau. Vùng thứ hai nhận thức đau là vùngkhớp thái dương hàm, nơi chỉ là vùng đau, không phải nguồn đau. Cơn đau này là lạc vị.
 
 
Do có rất nhiều loại nơ ron cảm giác khác nhau ở vùng ngoại vi, trong nhân sinh ba cũng có nhiều loại nơ rơn nhận tín hiệu thụ cảm từ ngoại vi. Các nơ ron đi lên đặt ở nhân sinh ba được biết đến như là các nơ ron cho lệnh thứ cấp hay nơ ron phát và được chia ra làm 3 nhóm nhỏ phân biệt nhau: (1) thụ thể cơ học ngưỡng thấp, (2) nơ rơn đặc hiệu cảm thụ thần kinh và (3) nơ ron hoạt động phổ rộng.
Các vùng tận cùng trung tâm sơ cấp của các sợi cảm thụ là nhóm nhân vùng sau (subnucleus caudalis) nằm ở vùng sau nhất của nhân sinh ba, mà theo giải phẫu và chức năng giống như sừng sau (sừng lưng) của tủy sống và được coi như là sừng lưng trung não. 4 thành phần quan trọng của quá trình thụ cảm nằm ở sừng sau của nhóm nhân vùng sau: các tận cùng trung tâm của dây tới, các nơ ron trung gian, các nơ ron phát, và các nơ ron đi xuống. Trong nhóm nhân vùng sau, các dây A-delta và dây C kết thúc đầu tiên ở lá cứng (lamina) I và Iia và lá V
Các dòng noron tại chỗ chứa các tế bào cù lao( được cho là bị ức chế) và các tế bào có cuống (được cho là bị kích thích). Khi kết hợp lại, các mạch nơ ron tại chỗ có thể điều chỉnh sự truyền tại nhận cảm từ các nơ ron nhận tới các nơ ron dẫn chiếu.
Thành phần thứ tư của sừng lưng chính là đầu cuối của các nơ ron đi xuống. Các nơ ron đi xuống có nguồn gốc từ nhân đường đan Magnus (NRM), nhân thể tuỷ, và nhân lục (locus ceruleus LC). Các nơron đi xuống phóng thích serotonin (từ NRM) và/hoặc norepinephrin (từ LC), có thể ức chế hoạt động của các nơ ron dẫn chiếu trực tiếp hoặc thông qua các nơ ron kết nối tại chỗ. Các nơ ron này có trách nhiệm với các cơn đau nội bào, phong bế các kết quả hoạt động của chúng bằng cách tăng sự dẫn truyền đau và giảm ngưỡng đau.
Các Nơ Ron Truyền Lệnh Thứ Cấp
Các nơ ron chiếu xa có axon ngược bên với hành tuỷ để đi lên bó đồi thị sinh ba và nhô ra tới nhân trước sau bên của đồi thị, ở nơi đó có các nơ ron bổ sung dẫn lên vỏ não. Các nơ ron chiếu xa bao gồm sự truyền dẫn các kích thích đau có thể được chia ra là 2 nhóm: nhóm hoạt động rộng và nhóm nhạy cảm đặc hiệu. Nhóm hoạt động rộng nhận thông tin vào từ các thụ cảm cơ học, thụ cảm nhiệt và các cơ quan nhận cảm trong khi đó các nơ ron nhạy cảm đặc hiệu bị kích bởi các cơ quan nhận cảm. Hai dạng nơ ron chiếu xa nhày có thể chịu trashc nhiệm trong việc báo hiệu cường độ và vị trí của cơn đau.
Rất nhiều các nơ ron đến sơ cấp có thể kết nối trên một hệ chiếu xa đơn (hội tụ). Điều này xảy ra ở mức độ cao hơn đối với các mô sâu khi so sánh với các mô nông trên da. Các sợi đến không có nguồn gốc sinh ba như từ mặt, lưỡi hầu, hạch tuỷ cổ có thể kết tụ và kết nối trên nơ ron chiếu xa sinh ba đặt ở phần sau C4. Hiện tượng kết tụ này có thể giúp tìm ra đau trên lâm sàng chung quanh vùng mô bị tổn thương. Sự hội tụ có thể giải thích cho việc tại sao cơn đau xuất hiện khi kết hợp với một vùng khác ngoài vùng bị tổn thương. Rất thú vị khi các nơ ron chiếu xa nhận thông tin vào từ các cấu trúc nông hoặc sâu, càng là thông tin nông thường được ưu tiên hơn. Do đó, cơn đau từ các cấu trúc sâu thường được cho là từ các vùng nông khác (ví dụ đau cơ hàm có thể được nghĩ ngay là cơn đau mặt hơn là các cấu trúc sâu hơn).
Hệ Thống Thần Kinh Tự Động
Sự phân bố toàn bộ thần kinh giao cảm của vùng hàm mặt được cung cấp bởi hạch sao, đặt hai bên ở khoảng đốt sống thứ 7. Dưới điều kiện bình thường, kích thích giao cảm không có ảnh hưởng tới chức năng cảm giác. Tuy nhiên, các sợi giao cảm đến ở vùng bị tổn thương sẽ bao gồm sự đáp ứng với đau và có thể có vai trò trong thông báo cơn đau mãn tính. Đặc biệt hơn, sợi C trong vùng tổn thương bán phần dây thần kinh sẽ chịu trách nhiệm kích thích thần kinh giao cảm. Sự điều chỉnh nhạy cảm bởi hệ thống thần kinh giao cảm được thể hiện thông qua việc giải phóng các chất dẫn truyền đau có thể bị can thiệp bởi sự có mặt các đối trọng giao cảm hoặc phong bế hệ thống thần kinh giao cảm, thông qua các hệ đối vận. Tác động của các sợi thần kinh giao cảm trong việc truyền dẫn đau là trực tiếp hoặc gián tiếp vẫn còn chưa sáng tổ. Sự phân chia cận giao cảm của hệ thống thần kinh tự động chưa được thể hiện trong việc phát triển hoặc điều chỉnh các cơn đau.

Không có đánh giá nào cho sản phẩm này.

Viết đánh giá

Chú ý: Không sử dụng các định dạng HTML!
    Chưa tốt           Tốt

Sản phẩm Liên quan (4)

© Copyright 2019-2025 Big Dental.

Đăng ký nhận tin

Đăng ký email để nhanh chóng nhận được các thông báo về khuyến mại, chương trình giảm giá của chúng tôi

Địa chỉ

Big Dental

Dr San