Canci hydroxyte
1.Đặc tính
- -Có tính kiềm, pH=11.5-13 vì vậy có kn diệt khuẩn và trunng hòa môi trường viêm
- -Có tính chất cầm máu do sự có mặt của Ca2+ vì Ca2+ là một trong các yếu tố cầm máu
- -Tính tương hợp sinh học
- -Không dính và ngà răng, bị hư khi soi mòn acid
- -Xốp và tự tiêu sau một thời gian=> lỗ hổng, nứt vi kẽ
- -Kích thích tủy tạo ngà thứ cấp( cầu ngà) trong trường hợp lộ trủy or kích thích tạo lớp xecent để đóng chóp ở răng vinh viễn đang phát triển bị hoại tử tủy(cơ chế chưa rõ)
- 2.Tính chất hoá học của Ca(OH)2
-
Chúng ta có thê thu được Ca(0H)2 bằng cách trộn vôi sông (Ca02) vối nước:
Ca + H20------------ » Ca(OH)2
Nò là chất khbng ổn định vì khi tiêp xúc VỐI khí Cacbonic ở không khí trong phòng se chuyên thành CaC03 không có tác dụng. Sự thay đồi này sẽ làm mất tác dụng của Ca(OH).,. Do vậy người ta thường bảo quản bằng cách cho một lượng ít vào trong lọ màu sẫm và kín, sau đó đổ một lóp nước cất lên trên. Do đó trong lọ sẽ có:
+ Lớp trên cùng là nước có một phần nhỏ vôi bị hoà tan gọi là nước vôi.
+ Lớp dưới nước vôi là một lớp mỏng CaC03 do Ca(OH)2 kết hợp với C02 có trong môi trường mà hình thành.
+ Lớp sâu là Ca(OH)ọ.
- Độ pH của Ca(OH)2 khoảng 11 là một pH rất kiềm nên độc vối tế bào và gây tổn thương tổ chức.
- Độ hoà tan của Ca(OH)2 rất yếu nên chỉ gây hoại tử bề mặt tổ chức tiếp xúc trực tiếp.
2.Phân loại:
-
- -Bột canci đơn thuần, nguyên chất : khi dùng được trộn vs nước cất, tủy theo mục đích dùng để che tủy(trộn đặc) or để trám bít ố tủy(trộn lỏng)
- -Canci biệt dược có 2 loại :
- + Canxi hóa trùng hợp:
- Canci hóa trùng hợp có 2 loại:
- Loại 2 ống: một là chất căn bản(base) và một chất là chất xúc tác. Khi sử dụng có thể lấy 2 chất đặt sát nhau trên một tấm giấy trộn, sau khi cô lập răng bắt đầu trọn 2 chất cho đều và dùng cây đặt để đưa chất dycal và xoang. Có thể đưa từng chất vào đáy xoang ( đặt chất căn bản vào trước sau đó đưa chất xúc tác vào) trộn trực tiếp trong xoang
Tên thương mại: dycao, Nu-cap
-Loại 1 ống: khi sd dùng cây đặt đưa một ít vào đáy xoang, sau đó dùng bông gòn ém nhẹ.
Tên thương mại: calxyd, puldent…
Chỉ có một ống. khi sử dụng lấy một ít đặt vào đáy xoang ,dùng đèn Halogen để kich hoạt
3. Chỉ định sử dụng
3.1 lót đáy
Do :calci tự tiêu và ko dính vào ố ngà(gây hiện tượng di chuyển dich trong ố ngà khi có lực cắn gây đau ) nên chỉ dùng một lượng ít và đặt đúng ở vị trí cần bảo vệ tủy
3.2 che tủy
Răng lộ tủy nhỏ và mô tủy hoàn toàn lành mạnh(trong trường hợp tủy viêm có kn hồi phuch) dùng calci để kích thích tủy tạo lớp ngà thứ cấp (cầu ngà) bảo vệ tủy
3.3 lấy tủy bán phần
Cho răng sữa or răng vv chưa đóng chóp, calci kích thích để đóng chóp
3.4 trám bít ống tủy tạm thời
-calci có tính diệt khuẩn nên được dùng để bít tủy điều trinh nhiễm trùng chóp đồng thời có k/n kích thích tọa cement để đóng chóp
Khi nội nha đối mặt với các răng có bệnh lý viêm quanh chóp (có thấu quang quanh chóp ). Hiện nay quan điểm sau khi sửa soạn ống tủy sẽ quay/bơm (cho vào ống tủy) một loại thuốc băng Ca(OH)2 vẫn đang có những ý kiến khác nhau. Với suy niệm Ca(OH)2 là thuốc băng có khả năng để điều trị các sang thương quanh chóp. Sau đó sẽ hẹn bệnh nhân tái khám định kì thay thuốc băng Ca(OH)2 cũ trong ống tủy bởi Ca(OH)2 mới và tiến hành cho chụp XQ cho đến khi vùng thấu quang không còn thấy nữa sẽ trám bít ống tủy
Tuy nhiên thực tế lâm sàng khi không cho Ca(OH)2 vào ống tủy của các răng có sang thương quanh chóp thì răng đó vẫn có thể lành thương sau quá trình trám bít ống tuỷ.
Mục đích cuối cùng của việc điều trị nội nha là ngăn chặn vi khuẩn gây bệnh và tránh tái nhiễm khuẩn từ các ổ viêm dẫn đến tình trạng viêm quanh chóp với việc làm sạch và trám bít ống tủy. Như vậy sự lành thương là dựa vào sự sửa chữa làm lành thương của cơ thể .
Thế nên việc Ca(OH)2 cho vào ống tủy và chờ hết thấu quang quanh chóp mới tiến hành trám bít còn tuỳ thuộc vào tình trạng của các ca lâm sàng cụ thể, hay tuỳ thuộc vào quan điểm của người điều trị.
Bên cạnh đó thực tế cho thấy rằng khi sử dụng Ca(OH)2 đôi khi thời gian điều trị của cả nha sĩ và cả bệnh nhân sẽ kéo dài hơn, cũng có thể làm gia tăng tỷ lệ thất bại và nguy cơ gây ra nhiều biến chứng từ thuốc băng Ca(OH)2.
Một vài quan niệm về Ca(OH)2
(1) hoạt động kháng khuẩn của Ca(OH)2 có liên quan đến sự giải phóng các ion hydroxyl hoạt động mạnh trong môi trường nước, chủ yếu tác động lên màng tế bào chất, protein và DNA.
(2) Mặc dù một số nghiên cứu lâm sàng đã ủng hộ ý kiến cho rằng hiệu quả của Ca(OH)2 giống như một loại thuốc đặt trong ống tủy, những nghiên cứu khác lại đặt nghi vấn về tính hiệu quả của nó và chỉ định CHX thay vì Ca(OH)2
(3) Nội độc tố, một thành phần của thành tế bào vi khuẩn gram âm, đóng vai trò cơ bản trong tác nhân gây ra và duy trì tổn thương quanh chóp vì nó gây viêm và tiêu xương. Ca(OH)2 bất hoạt nội độc tố, trong nghiên cứu in vitro và in vivo, và cho đến nay là thuốc có hiệu quả lâm sàng duy nhất có tác dụng bất hoạt nội độc tố.
(4) Nấm đôi khi được tìm thấy trong ống tủy bị nhiễm khuẩn, nhưng chúng xuất hiện nhiều hơn ở những ống tủy đã được trám bít ở những răng điều trị tủy thất bại. C. albicans cho đến nay là loại nấm thường được phân lập thấy từ trong các ống tủy bị nhiễm khuẩn. Có vẻ như sự kết hợp giữa Ca(OH)2 và camphorated paramonochlorophenol hoặc chlorhexidine có khả năng tác dụng hiệu quả như là các thuốc đặt trong ống tủy ở những trường hợp nghi ngờ nhiễm nấm.
(5) Nghiên cứu được thực hiện về khả năng kháng khuẩn của Ca(OH)2 đối với màng sinh học cho thấy kết quả ngược lại. Những nghiên cứu sâu hơn cần được thực hiện để làm sáng tỏ tác động của Ca(OH)2 đối với màng sinh học.
(6) Mặc dù tính hữu ích của việc trộn Ca(OH)2 với CHX vẫn chưa rõ và còn nhiều tranh cãi, nhưng dường như việc trộn Ca(OH)2 với CHX thì hoạt động kháng khuẩn của Ca(OH)2 tăng lên. Nói cách khác, thứ tự giảm dần hoạt động kháng khuẩn của Ca(OH)2, CHX và sự kết hợp của chúng như sau: CHX, Ca(OH)2/CHX, và Ca(OH)2.
(7) Dường như là ngà răng, hydroxyapatite và những chất vụn của mô tủy hoại tử cũng như là dịch viêm giảm khả năng kháng khuẩn của Ca(oh)2. Nói cách khác, Ca(oh)2 hiệu quả trong điều kiện phòng thí nghiệm nhưng "tương đối" kém hiệu quả khi sử dụng như là một loại thuốc trong cơ thể nếu không được sử dụng đúng mức.
4.Kỹ thuật hàn lót vs canci
- Làm ẩm lỗ hàn
Sử dụng kẹp gắp lấy một cục bông vê nhỏ, làm ẩm và vắt hơi khô bằng cách ép lên một miếng gạc. Đặt cục bông Ướt đó và lỗ hàn.
- Lấy chất nền trước. Ép nhẹ từ đuôi tuýp để xuất ra một lượng nhỏ; lau khô sạch miệng tuýp và lấy khoảng 1mm Dycan trên giấy trộn. Một lần nữa, ép một lượng nhỏ và làm sạch miệng tuýp trước khi đóng lại
Lấy chất xúc tác bằng cách tương tự, chắc chắn sử dụng phần sạch của tấm gạc để làm sạch miệng tuýp, tránh làm bẩn nó vs phần chất nền còn sót lại
- Trộn canxi hydroxite
Có thể sử dụng cây đưa CaOH hoặc cây nạo ngà để trộn. Dùng chuyển động khuấy đều hai loại bột vs nhau cho tới khi đạt tới màu đồng đều; chỉ thực hiện không quá 10-15s. Sau khi kết thúc trộn, lau sạch dụng cụ và sử dụng cây đưa có kích thước tương đương với kích thước của lỗ hàn lấy một cement đã trộn. Cũng có thể sử dụng đầu nạo ngà (mặt lõm hoặc mặt lồi đều được) – để đặt CaOH
- Đặt cement.
Đặt cement vào phần sâu nhất của lỗ hàn mà không làm bẩn thành bên; cho phép cement chảy ở sàn lỗ hàn
- Đợi cement cứng.
Để cement cứng cần độ ẩm; đặt một cục bông vê nhỏ ẩm ở miệng lỗ hàn, trên mặt của lớp cement mới đặt trong 30 giây. Cần đảm bảo cục bông không tiếp xúc trực tiếp với cement. Sau 30 giây, kiểm tra lại cement với thám châm để đảm bảo nó đã cứng.
Với các vật liệu hàn như composite, giữ khô lỗ hàn là rất quan trọng. Khi hàn răng với lớp lóp canxi hidroxit ưa ẩm đặc trưng, chỉ cần làm khô răng tương đối, giữ ẩm trong thời gian ngắn (30s) để chất hàn lót khô lại là đủ, sau đó làm khô răng lại và hàn như bì nh thường.
Canxi hidroxit dạng bột nhão như trên rất nhanh đông cứng, bạn có thể trộn ở giấy bên ngoài rồi đưa vào, hoặc trộn trực tiếp trong lỗ hàn rồi đợi cứng.
Theo trải nghiệm thực tế của bản thân tôi, dù tạo môi trường ẩm hay không thì vật liệu canxi hidroxit dạng này vẫn đông cứng. Nhưng với môi trường thiếu ẩm (làm khô xoang hàn quá mức) sau khi đông cứng canxi hidroxit bám vào các thành xoang kém, dễ bị bong rời rạc, sẽ gây khó khăn cho việc đặt lớp chất hàn tiếp theo.