VẤN ĐỀ KÍCH THÍCH TỦY TRONG MÀI RĂNG
Mọi sự can thiệp vào răng liên quan đến mở các ống ngà và che lên các đuôi
nguyên bào ngà đều gây ra phản ứng ở mô tủy. Loại, thời gian và mức độ phản
ứng thay đổi tùy theo nhiệt độ, áp lực và loại kích thích hóa học từ các chất làm
sạch xoang hay chất trám.
Tổn thương mô do các kích thích và các phản ứng có thể hoàn nguyên hay không
hoàn nguyên: Trong những trường hợp thuận lợi (nhiệt độ không lên quá 40o C
(1040 F), không có áp lực quá mạnh, chỉ dùng hóa chất có tính tương hợp sinh
học), thì nguyên bào ngà bị tổn thương hoàn nguyên, viêm cấp thóang qua ở vùng
ngoại vi của tủy và kích thích số lượng và tốc độ lắng đọng ngà lớp thứ ba.
1. Về nhiệt độ
- Nhiệt độ trong tủy tăng lớn hơn 100 C (220F) gây kết tủa protein và hoại
tử mô và tế bào không hoàn nguyên.
- Khi sửa soạn xoang với nước làm mát tối ưu, nhiệt độ chỉ tăng nhẹ. Nếu
dụng cụ quay và bề mặt không được làm mát đủ, như khi cắt bằng đĩa,
nhiệt độ của tủy có thể tăng lên 15oC (27oF) và gây hoại tử tủy.
- Khi lấy dấu cùi răng nếu vật liệu lấy dấu quá nóng khi đưa vào, nhiệt độ
của tủy có thể lên cao đến 53oC (127oF): Resin acrylic tự trùng hợp có
thể làm tăng nhiệt độ buồng tủy lên 75oC (167oF). Phản ứng tỏa nhiệt của
composite ít hơn, chỉ làm tăng nhiệt độ của tủy khoảng 2-5oC (3,6o-9oF).
Do đó trong trường hợp xấu nhất, lớp nguyên bào ngà chết trên diện rộng
và có hiện tượng viêm với sự thâm nhập bạch cầu, ảnh hưởng trên phần
lớn buồng tủy thân răng, có những hậu quả không hoàn nguyên và nguy
hiểm cho sự sống của răng.
2. Về vật liệu:
- Phản ứng viêm tủy cấp nặng có thể xảy ra khi bệnh nhân nhạy cảm với
thành phần của vật liệu. Langeland phát biểu: “sự tăng độ dày ngà theo
tuổi và giảm tính thấm do tạo ngà quanh ống không làm giảm hậu quả
của việc sửa soạn ở răng người lớn tuổi”. Một lớp ngà dày giữa xoang và
tủy không bảo vệ được mô tủy khỏi các kích thích khi sửa soạn hay kích
thích của hóa chất. Mức độ thay đổi của tủy phụ thuộc vào thành phần
hóa học của chất trám hơn là chiều dày của lớp ngà còn lại (khoảng cách
tối ưu từ đáy xoang đến buồng tủy là khoảng 1mm)
- Ngay cả khi có ngà thứ ba cũng không thể bỏ qua những nguyên tắc sinh
học nghiêm ngặt trong việc sửa soạn xoang. Đáp ứng của tủy và nguyên
bào ngà đối với kích thích do kỹ thuật sửa soạn hay vật liệu trám bằng
cách tạo ngà thứ ba không chứng minh được việc dùng những kỹ thuật
và vật liệu này để kiểm soát giới hạn của sự đáp ứng. Sự tạo ngà thứ ba ít
khi thấy trong 4 tuần đầu sau kích thích và cần nhiều tháng để sự tăng
cường thành ngà có ý nghĩa trên lâm sàng. Hơn nữa, trong nhiều trường
hợp, điều này không hề xảy ra, hay chỉ xảy ra sau khi có sự sửa soạn gần
tủy hay chấn thương đủ gây hoại tử các nguyên bào ngà. Vì những lý do
này mà việc thực hiện kỹ thuật trên lâm sàng với hy vọng có được sự tạo
ngà thứ ba là không đúng.
Cần nhấn mạnh rằng cho dù ngay cả những can thiệp điều trị thật cẩn thận
thành công và chỉ gây ra tổn thương tủy tạm thời và nhiều khả năng hoàn nguyên
thì ảnh hưởng của nhiều lần can thiệp như vậy có thể cộng dồn và gây ra những
tổn thương không sửa chữa được. Răng được điều trị không có triệu chứng gì
trong hàng tháng hay thậm chí hàng năm cũng không thể bảo đảm là điều trị đã
thành công và sẽ không gây tổn thương gì.