QUÁ TRIỂN XÊ MĂNG VÀ CỨNG KHỚP
1. Quá triển xê măng
Xê măng được tạo thành với số lượng khác nhau trong suốt cuộc sống. Việc
tạo quá nhiều xê măng so với số lượng bình thường (quá triển xê măng) luôn luôn
là từ xê măng có tế bào và sợi nội sinh. Trong những trường hợp bình thường đã
có một lượng lớn xê măng có tế bào ở răng nhiều chân, đặc biệt ở vùng chẽ và
vùng quanh chóp, nhiều hơn là ở răng một chân, đặc biệt là răng cửa. Do đó khó
xác định được có bao nhiêu xê măng là bình thường. Nói chung, một chân răng có
vùng chóp lớn, dày, dạng nút bất thường thì được xem là quá triển xê măng.
Trong một nghiên cứu ở Đức với hơn 22000 bệnh nhân tuổi trung bình là 42, thấy
quá triển xê măng ở răng một chân trên phim X quang ở 1,7% trường hợp. Răng
cối lớn hàm dưới thường có nhiều hơn răng cối lớn hàm trên. Dạng chân răng dị
dạng này có thể làm cho việc nhổ răng rất khó khăn.
Quá triển xê măng trên toàn thể các răng có thể do di truyền và rất hiếm. Cần
phân biệt quá triển xê măng với u xê măng, là một u nguyên bào xê măng có kèm
tiêu xương.
2. Cứng khớp
Cứng khớp là do xê măng và ngà dính vào xương ổ. Nó thường xảy ra như
một hiện tượng đặc biệt ở trẻ em, tỉ lệ ở trẻ 3-10 tuổi là khoảng 3%-27%. Ơ nhóm
tuổi này, răng cối sữa thứ hai hàm dưới thường bị nhất. Khi cứng khớp xảy ra
trước khi kết thúc tăng trưởng xương ổ, răng sữa bị dính khớp vẫn ở vị trí cố định,
nghĩa là mặt nhai nằm thấp hơn so với mặt phẳng nhai của răng vĩnh viễn. Khoảng
cách giữa mặt phẳng nhai cho biết thời gian cứng khớp.
Cứng khớp có thể chẩn đoán trên phim Xquang và trên lâm sàng khi nghe
âm thanh gõ. Nó chỉ xảy ra khi quá trình tiêu mô cứng của răng đã diễn ra trước
đó. Cứng khớp dường như có liên hệ với sự tiêu chân răng sữa sinh lý và cũng là
kết quả của chấn thương cơ học và sau khi tái cắm ghép răng vĩnh viễn.