NHỮNG THAY ĐỔI Ở MÔ CỨNG CỦA RĂNG THEO TUỔI
1. Thay đổi ở men răng
Sau khi mọc, cả răng sữa và răng vĩnh viễn chịu một loạt những thay đổi ảnh
hưởng đến mô cứng, tủy và những thay đổi này trở nên rõ ràng hơn về mặt lâm
sàng theo quá trình tích tuổi.
Theo tuổi, men răng mất nước và hàm lượng chất hữu cơ giảm. Vỏ của trụ
men mỏng dần hoặc biến mất. Cấu trúc tinh thể trở nên dày, chặt, đặc biệt là ở 1-
2mm ngoài cùng. Thành phần hóa học thay đổi do hàm lượng carbonate giảm và
thay thế các nhóm OH bằng fluorine hoặc những nguyên tố khác.
Ở trẻ sơ sinh thiếu cân, răng sữa được hình thành có đường sơ sinh rộng và men
thiểu sản sau khi sinh do rối loạn sự calci hóa.
Do sự trưởng thành của men sau khi mọc, men răng theo tuổi ngày càng giảm tính
thấm, càng dễ bị xoi mòn bằng acid phosphoric hoặc acid citric, nhưng càng ít hòa
tan trong acid và đồng thời càng giòn và dễ bị tổn thương hơn.
Đường nứt men sau khi mọc cũng nhiều hơn. Điều này có thể gây ra vì những thay
đổi nhiệt độ đột ngột, (thí dụ trong lúc thử tủy bằng CO2, thay đổi nhiệt độ thức ăn
đột ngột…) nhưng những đường nứt có sẵn chiếm khoảng 60% răng vĩnh viễn của
trẻ vị thành niên. Những đường nứt và lỗ rỗ là nơi trú ngụ của vi khuẩn và protein
của nước bọt có thể dẫn đến sự đổi màu men.
Hình dạng và bề mặt của men đỉnh múi bị thay đổi do cơ học. Lực nhai, đặc
biệt là các thói quen cận chức năng (nghiến răng và siết chặt răng), làm mòn răng
đưa đến giảm kích thước và độ dày của men vùng bờ cắn và đỉnh múi, vùng tiếp
xúc cũng dần dần bị biến đổi theo tuổi.
Mặt ngoài, mặt nhai, mặt trong bị thay đổi do mài mòn (chải răng, ngậm ống
điếu…). Đường ngói lợp (Perikymata) trở nên phẳng và bề mặt men hoàn toàn
nhẵn, những lỗ rỗ nhỏ biến mất.
Mòn răng nặng có thể đưa đến mòn toàn bộ men đỉnh múi, rìa cắn; truờng
hợp rất nặng, mòn cả men và ngà có nguy cơ kích thích tủy. Lớp ngà ngoại vi
tương ứng được khóang hóa nhiều hơn và cứng hơn do hoạt động bảo vệ của tế
bào và sự hình thành ngà quanh ống (xơ hóa ống ngà). Ngoài ra toàn bộ chiều dày
ngà tăng lên do sự hình thành ngà thứ cấp. Ngà lộ ra bị đổi màu do thấm những
chất ngoại lai.
2. Thay đổi ở ngà răng
Những thay đổi sinh lý theo tuổi của ngà trên một răng sống bao gồm sự
thành lập dần dần ngà thứ cấp và ngà quanh ống, cùng với quá trình thóai hóa dần
dần tủy răng. Răng người trẻ có buồng tủy rộng, sừng tủy nhô cao về phía nhai và
ống tủy rộng. Răng người già, buồng tủy hẹp rõ và phẳng, ống tủy nhỏ dần, màu
răng sậm hơn. Quá trình này dẫn đến giảm thể tích buồng tủy, đặc biệt là sừng tủy;
hẹp ống tủy, tăng chiều dày của ngà thân và ngà chân; tăng độ trong của ngà chân
răng. Độ trong này do xơ hóa ống ngà, bắt đầu ở vùng ngoại vi chóp răng, dần dần
hướng về tủy và thân răng.
Các lớp xê măng mới cũng bồi đắp liên tục, quá trình này cũng được thấy ở
răng ngầm chưa bao giờ chịu lực nhai và tác động của môi trường miệng.
Tính thấm của ngà và xê măng giảm dần dần.