XOANG MỞ TỦY
Mục tiêu là loại bỏ hoàn toàn trần buồng tủy. Điều này giúp tạo lối vào thông thoáng với thành tủy nhẵn, cho phép dụng cụ tiếp cận một cách dễ dàng đến một phần ba phía thân răng của ống tủy. Việc loại bỏ ngà răng cần được thực hiện một cách cẩn trọng, nhằm cân bằng giữa việc tạo không gian sửa soạn và bảo tồn tối đa mô răng lành mạnh. Hình dạng của khoang mở tủy phụ thuộc vào giải phẫu của răng. Việc mở ban đầu được thực hiện tại điểm mà trần và sàn buồng tủy cách xa nhau nhất (thường là tại các sừng tủy). Quá trình này có thể được thực hiện bằng mũi khoan tungsten carbide hoặc mũi khoan kim cương.
Giai đoạn thâm nhập
Giai đoạn này được thực hiện bằng mũi khoankim cương tròn gắn trên tay khoan tốc độ cao. Mục tiêu của giai đoạn này là “xuyên qua” mái buồng tủy bằng cách khoan thủng nó. Nếu buồng tủy đủ rộng, người thực hiện sẽ có cảm giác “rơi vào khoảng trống” khi khoan qua mái tủy. Tuy nhiên, nếu buồng tủy quá hẹp hoặc hoàn toàn không có do sự phát triển của quá nhiều mô calci hóa, sẽ không thể có cảm giác này. Trong trường hợp đó, cần phải nạo rộng khoang mở tủy để giải phóng các lỗ ống tủy khỏi vật cản – tương tự như cách Michelangelo đã giải phóng bức tượng David khỏi khối đá cẩm thạch bao quanh nó! Nếu trong quá trình khoan một răng có buồng tủy bị calci hóa hoàn toàn mà ta chờ đợi cảm giác “rơi vào khoảng trống”, thì khi điều đó xảy ra cũng là lúc quá muộn – vì nó có thể báo hiệu đã xảy ra thủng răng.
Giai đoạn mở rộng
Giai đoạn này được thực hiện với mũi khoan tròn với tay khoan chậm. Đường kính của mũi khoan này nên nhỏ hơn một chút so với mũi khoan trước đó và phải có trục dài để tẳng khả năng thâm nhập sâu vào trong buồng tủy và quan sát. Lỗ mở tủy được tạo ra trong giai đoạn trước được tiếp cận, và tác động của mũi khoan được thực hiện “trên đường rút ra”. Mũi khoan được bật khi rút ra khỏi buồng tủy, hoạt động trên thành ngà bằng chuyển động chải. Bằng cách này, tất cả các phần ngà nhô ra còn sót lại từ giai đoạn trước được loại bỏ. Trong giai đoạn này, hình dạng cuối cùng của lỗ mở tủy bắt đầu hình thành và sẽ được hoàn thiện ở giai đoạn tiếp theo.
Giai đoạn hoàn thiện và loe
Giai đoạn này yêu cầu một mũi khoan kim cương không có tác dụng cắt ở đầu, còn được gọi là mũi khoan tự dẫn hướng hoặc mũi khoan Batt’s, gắn trên tay khoan nhanh. Nó được sử dụng để hoàn thiện công việc đã thực hiện trong hai giai đoạn trước và làm nhẵn các thành của lỗ mở tủy, sao cho sự chuyển tiếp giữa lỗ mở tủy và thành buồng tủy không thể cảm nhận được khi thăm dò. Với góc nghiêng thích hợp, cùng một mũi khoan cũng hữu ích để loe nhẹ phần gần mặt nhai nhất của lỗ mở tủy ra bên ngoài.
Răng cửa giữa hàm trên
Lỗ mở tủy được bắt đầu bằng cách đặt mũi khoan phía trên cingulum, gần như vuông góc với mặt trong của răng. Cingulum được chọn làm điểm bắt đầu vì, trái ngược với bờ nướu có thể co lại và bờ cắn có thể bị mòn, cingulum vẫn ổn định suốt đời của bệnh nhân (trừ bệnh nhân có mòn răng do acid và một số trường hợp khớp cắn sâu). Sau khi kết thúc giai đoạn thâm nhập, lỗ mở tủy vẫn chưa hoàn chỉnh, vì vẫn cần phải loại bỏ hai gờ cản, thường được gọi là “tam giác số 1” và “tam giác số 2” trong giai đoạn mở rộng. Hai tam giác này cản trở việc đưa dụng cụ nội nha vào đến mức đôi khi chúng có thể gần như ngăn chặn đưa dụng cụ vào.
Răng cửa bên hàm trên
Ở răng này, lỗ mở tủy được tạo theo cách tương tự như ở răng cửa giữa. Điểm khác biệt duy nhất là hình dạng cuối cùng của lỗ mở: ở răng cửa bên, lỗ mở có hình bầu dục do răng này có hai sừng tủy nằm gần nhau hoặc một sừng tủy trung tâm duy nhất. Hiếm khi, có thể gặp một ống tủy phân nhánh ở một phần ba chóp thành hai ống tủy riêng biệt với hai chóp độc lập (loại IV theo phân loại của Weine). Rất thường xuyên, phần ba chóp của chân răng có độ cong về phía xa hoặc phía khẩu cái. Tuy nhiên, đặc điểm này không dễ nhận ra trên phim X-quang.
Răng nanh hàm trên
Là răng dài nhất trên cung răng, răng nanh hàm trên có vai trò cực kỳ quan trọng từ góc độ khớp cắn. Lỗ mở tủy bắt đầu ở khoảng giữa chiều cao thân răng về phía khẩu cái. Các nguyên tắc áp dụng cho răng cửa giữa cũng được áp dụng tương tự ở đây. Với buồng tủy hình bầu dục và một sừng tủy duy nhất, lỗ mở tủy có dạng hình oval với đường kính lớn theo hướng chóp – thân răng. Nếu răng bị mòn hoặc gãy, mặt cắn sẽ được đưa vào trong lỗ mở tủy. Ống tủy của răng này khá thẳng và đủ dài để thường xuyên cần sử dụng dụng cụ dài 30 mm. Ở phần chóp, chân răng – và do đó cả ống tủy – có thể có độ cong theo bất kỳ hướng nào. So với răng cửa hàm trên, răng nanh ít có ống tủy bên hơn. Việc tìm thấy hai ống tủy ở răng này là rất hiếm.
Việc điều trị răng cửa giữa cũng như răng cửa bên hàm dưới không hề dễ dàng. Trên thang độ khó, Weine xếp răng này ngay sau răng cối lớn và răng cối nhỏ hàm dưới có nhiều hơn một ống tủy. Những khó khăn liên quan đến răng này chủ yếu do sự mỏng theo chiều gần-xa khi so với chiều ngoài-trong, khiến cho việc mở rộng hoàn toàn ống tủy theo bất kỳ hướng nào trở nên rất khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả thi. Chân răng, đôi khi có độ cong về phía xa hoặc phía lưỡi, thường chứa hai ống tủy.
Benjamin và Dawson báo cáo rằng răng cửa giữa hàm dưới có hai ống tủy trong 41,4% trường hợp, nhưng chỉ có 1,3% trường hợp có hai lỗ chóp độc lập. Theo Weine, 60% trường hợp có một ống tủy dạng dẹt theo chiều ngoài-trong, 35% có hai ống tủy hợp nhất thành một lỗ chóp chung, và 5% có hai ống tủy hoàn toàn độc lập. Do đó, có thể kết luận rằng răng cửa giữa hàm dưới nên luôn được xem xét có hai ống tủy, bởi ngay cả khi chỉ có một ống tủy, hình dạng kéo dài theo chiều ngoài-trong của nó cũng đòi hỏi phải xử lý như thể có hai ống tủy trong quá trình tạo hình lỗ mở tủy và sửa soạn nội nha.
Răng này tương tự như răng cửa giữa, điểm khác biệt duy nhất là nó thường dài hơn một chút. Răng cũng có thể có hai ống tủy trong chân răng với một mức độ đối xứng nhất định. Nếu bệnh nhân có hai ống tủy ở răng cửa bên phải, có thể dự đoán rằng răng cửa bên trái cũng sẽ có hai ống tủy; tương tự, nếu răng cửa bên phải chỉ có một ống tủy, nhiều khả năng răng cửa bên trái cũng vậy.
Răng này thường có một chân răng chứa một ống tủy (87% trường hợp). Trong 10% trường hợp, có hai ống tủy hợp nhất tại chóp, và hiếm hơn (3%) có hai ống tủy hoàn toàn độc lập. Rất hiếm khi răng nanh hàm dưới có hai chân răng. Chiều dài của răng có thể thay đổi, nhưng rất thường xuyên cần sử dụng dụng cụ dài 30 mm.
Lỗ mở tủy có dạng hình bầu dục và cần được mở rộng đủ theo hướng ngoài-trong để tạo đường vào thẳng đến ống tủy lưỡi hoặc ít nhất là thành trong của ống tủy, vốn kéo dài theo hướng ngoài-trong. Ở răng bị mòn nhiều, lỗ mở tủy cũng có thể liên quan đến mặt nhai hoặc chỉ giới hạn trên mặt nhai. Nếu có mòn cổ răng rất rộng, lỗ mở tủy có thể được thực hiện hoàn toàn từ phía ngoài.