Cơn Đau Thực Thể Và Cơ Xương
Đau Cơ Mặt
Mặc dù bất kì dạng đau mô thực thể sâu nào ở đầu hay cổ cũng gây ra các tác động kích thích trung tâm và do đó tạo ra các cơn đau quy chiếu lên răng, các cơn đau nguồn gốc từ cơ thường xuất hiện nhiều nhất. Cơn đau cơ mặt (MFP) xuất hiện từ sự kích thích các cơ nhạy cảm. Trên lâm sàng các vùng này được coi là các nút thắt hoặc mối dây và gọi là các điểm kích hoạt. Cơn đau điển hình được miêu tả là cảm giác đau buốt, nhói đau lan toả, liên tục, nó có thể dẫn tới sự chẩn đoán sai khi lầm lẫn với cơn đau tuỷ. Một đặc điểm gây nhầm khác của cơn đau cơ nhai là bệnh nhân thường thấy đau khi ăn nhai. Đặc điểm này khiến nó liên tưởng tới đau cận chóp, không do tuỷ. Tìm hiểu sâu hơn, có thể thấy rõ ràng răng cơn đau được kích hoạt bằng cách co thắt các cơ nhai hơn là lực tác động trên dây chằng.
Sờ nắn các cơ nhai có thể gây đau trong khi đó gõ răng thì không. Cường độ đau có thể tăng và được cảm nhận ở nơi xa. Cơn đau cơ mặt được nhận thức như đau răng theo dạng quy chiếu. Cơn đau cảm nhận ở một vùng khác hơn là nhánh dây phân bố ở điểm kích hoạt. Các cơ điển hình gây ra cơn đau giống răng này là cơ cắn, cơ thái dương, và bướm ngoài. Các cơ của cổ và các cấu trúc sâu không cơ của mặt cũng có thể là nguồn gốc của dạng đau này.
Mặc dù cơ chế bệnh lý hoàn toàn của MFP còn chưa sáng tỏ, các tác giả cho rằng các cơ này có thể bị rối loạn do chấn thương hoặc có thắt nhiều. Sự co thắt cơ trên lâm sàng có thể xuất hiện như một thói quen cận lâm sàng hoặc một đáp ứng bảo vệ bằng cơ định vị với một thông tin đến không độc đang tới như cơ đau răng. Theo lý thuyết này và trên lâm sàng, các điểm kích hoạt xuất hiện thường được kích thích và làm nặng thêm bởi cơn đau răng. Có nghĩa là các điểm này có thể gây đau kéo dài sau khi việc đau răng đã được giải quyết. Điều này khiến bác sĩ bối rối và gây lo sợ cho bệnh nhân. Cần nhân ra mối quan hệ giữa hai đối tượng này. MFP có thể bắt chước cơn đau răng và cơn đau răng có thể phát triển MFP.
Cơn đau răng nguồn gốc đau cơ mặt có thể xuất hiện với hoặc không bệnh lý tuỷ và cận chóp. Chẩn đoán cuối cùng nên dựa trên sự thiếu hội chứng sau khi thử tuỷ và gõ/sờ hoặc tiêm tê. Ngược lại, các chức năng hàm và sờ nắn cơ nhai sẽ loại trừ các cơn đau răng nguồn gốc cơ mặt. Tiêm thấm tại chỗ vào các điểm kích hoạt sẽ giải quyết các hiện tượng này.
Một số phương án điều trị chung sử dụng mát xa sâu, kỹ thuật thư giãn, xịt, thư giãn cơ, và tiêm các điểm kích hoạt. Mát xa sâu và kỹ thuật thư giãn có lợi ích là không xâm lấn và dễ thực hiện. Xịt và làm giãn bao gồm sử dụng bình xịt lạnh lên da và kéo giãn cơ. Tiêm thấm các điểm kích hoạt được sử dụng để chẩn đoán và điều trị cơn đau cơ mặt. Đặc biệt hơn, nếu bệnh nhân giảm bớt các triệu chứng sau khi tiêm, điều đó cũng khẳng định chẩn đoán. Hiệu quả điều trị tiêm các điểm kích hợp thay đổi tuỳ bệnh nhân. Một số có thể giảm đau lâu với một hoặc nhiều mũi, một số khác thì không. Xem thêm phần Các thử nghiệm bổ trợ để có nhiều thông tin hơn về việc tiêm các điểm kích hoạt.
Cơn Đau Nguồn Gốc Xoang Và/ Hoặc Niêm Mạc Mũi
Cơn đau niêm mạc mũi/ xoang hàm là một nguồn đau khác có thể giống như cơn đau răng.2,3,25,114 Cơn đau xoang hàm có thể tạo ra các hội chứng của tắc nghẽn và áp suất dưới mắt, nhưng nhìn chung không đau đặc biệt trừ khi niêm mạc mũi cũng bị tác động.32 Cơn đau từ niêm mạc mũi có xu hướng nhức nhối và âm ỉ và có thể có dạng bỏng rát điển hình của cơn đau niêm mạc tảng. Nhìn chung, các cơn đau này bắt nguồn từ nguyên nhân nhiễm vi khuẩn, vi rút hoặc dị ứng. Một số hội chứng khác đi kèm với các dạng bệnh lý này ( như chảy nước mũi/ ngẹt múi) nên được ghi chú trong tiền sử của bệnh nhân.
Các mô tạng sâu điển hình như niêm mạc mũi, xoang hàm có thể có các cơn đau gây ra tác động lên trung tâm thần kinh như tạo chứng tăng đau thứ cấp, đau quy chiếu và các thay đổi tự thân. Đó cũng chính là nguyên nhân các cơn đau này gây ra cảm giác đau răng. Chứng tăng cảm đau thứ cấp, trên lâm sàng như một dạng đau lan truyền hướng tâm chung quanh khu vực tổn thương mô, có thể là kết quả của nhạy cảm niêm mạc ở vùng xoang hàm trên cũng như sự nhạy cảm của việc gõ nhiều răng hàm trên. Nhạy cảm răng do gõ và sờ nắn cho thấy viêm cận chóp. Hậu quả tự động có thể phù nề và/hoặc sung huyết trong vùng, điều này dễ nghĩ tới áp xe răng. Tuy nhiên, khi không có nguyên nhân tuỷ và bệnh lý cận chóp, các bệnh lý xoang hàm, niêm mạc mũi nên được nghi ngờ. Một số hội chứng khác của bệnh lý xoang bao gồm nhạy cảm với sờ nắn cấu trúc bọc trên xoang (nhạy cảm cận xoang) và tạo cảm giác mạch đập hoặc tăng cảm giác đau khi đầu đặt thấp hơn im. Phong bế tại chỗ bằng tiêm tê răng không làm giảm cơn đau niêm mạc mũi/ xoang hàm mặc dù gây tê thoa niêm mạc mũi có thể giảm bớt.
Bệnh nhân nghi ngờ có bệnh lý niêm mạc mũi/ xoang hàm nên được chuyển cho bác sĩ tai mũi họng để chẩn đoán và điều trị thêm. Khám thể chất cũng như các test hỗ trợ có thể cần thiết để tìm ra chẩn đoán cuối cùng. Các test bao gồm xét nghiệm tế bào mũi và siêu âm cũng như sử dụng nội soi mũi, các test hình ảnh qua Xquang và cộng hưởng từ. Điều trị cơn đau niêm mạc mũi/ xoang hàm phụ thuộc và nguyên nhân ( vi rus, vi khuẩn, dị ứng hoặc bị tắc nghẽn).
Cơn Đau Tuyến Nước Bọt
Đau quy chiếu từ một hoặc nhiều tuyến nước bọt có thể nhận thức như một cơn đau răng, nó được coi như một cơn dau răng không do răng. Do các phân bố thần kinh sơ cấp của các tuyến nước bọt bắt nguồn từ nhánh thần kinh hàm dưới, do đó giải thích vì sau nó thường thể hiện các cơn đau ở các răng hàm dưới nhiều hơn.