Cơn Đau Mạch Thần Kinh
Các cơn đau mạch thần kinh, hay còn được sử dụng như một rối loạn đau đầu, có các tính chất tương đồng với đau tuỷ. Các dạng của cơn đau này có thể rất mạnh mẽ, mạch đập và thường xuất hiện chỉ ở trên đầu. Hiệp hội đau đầu quốc tế (UK) đã phát triển một hệ thống phân loại được chấp thuận rộng rãi mặc dù các nghiên cứu xác thực của các tiêu chí này vẫn chưa được công bố. Các bạn đọc quan tâm có thể tìm hiểu hệ thống phân loại chi tiết trong chủ đề này. Các rối loạn đau mạch thần kinh sơ cấp được cho là hiện tượng đau quy chiếu, nghĩa là nhánh nội não của dây thần kinh sinh ba trở nên nhạy cảm thông qua một cơ chế chưa được phát hiện đầy đủ và cơn đau kết hợp cùng các triệu chứng được nhận thức trong các cấu trúc thực thể của đầu. Hầu hết mọi người cho rằng cơn đau ở đầu, sau đầu, thái dương nhưng cũng có khi xuất hiện ở xoang hàm, hàm và các răng.
Hiểu rõ bệnh sinh học của các đau đầu cho thấy bệnh lý răng và các điều trị không phải là nguyên nhân để phát triển một rối loạn đau đầu, nhưng do cùng cơ chế thần kinh tự động, các khía cạnh nha khoa có thể được coi như một tác nhân kích động, tương tự như nhu cầu gia tăng trên hệ thống tim mạch có thể là một tác nhân kích động nhồi máu cơ tim cấp tính. Vì lý do này, bác sĩ nha khoa nên nhận biết được chẩn đoán trene bệnh nhân, do bệnh nhân có rối loạn đau đầu thường có nhiều biến chứng đau trong điều trị do sự tăng nhạy cảm hệ thống thần kinh sinh ba cao hơn ở bệnh nhân này so với người khác.
Quan tâm của bác sĩ nha khoa chính là các rối loạn đau đầu trong bệnh nhân có thể bị tường thuật lại như một cơn đau răng. Để đơn giản hoá suy nghĩ, các rối loạn đau đầu sơ cấp được chia ra là ba nhóm nhỏ: (1) đau nửa đầu, (2) đau đầu dạng huyết áp, (3) đau đầu cụm và các cơn đau đầu tự phát sinh ba (TACs).
Đau nửa đầu là cơn đau phổ biến, khoảng 18% phụ nữ và 6% đàn ông bị dạng đau đầu này.72,105 Nó thường kết hợp với sự bất lực, khiến bệnh nhân tìm kiếm điều trị và nguyên nhân tại sao dạng đau đầu này có số lượng lớn tại các trung tâm y tế. Đau nửa đầu được miêu tả như đau răng4,23,29,46,82,86 và là rối loạn thần kinh mạch phổ biến nhất. Bên cạnh đó, bệnh nhân đau nửa đầu thường tăng nhạy cảm đau vùng cần chẩn đoán và điều trị.
Cơn đau nửa đầu điển hình kéo dài 4-72h. Chúng có xu hướng đau một bên với mạch đập, với cường độ đâu trung bình tới nặng. Bệnh nhân còn có thể buồn nôn hoặc nôn ói, cũng như chứng sợ ánh sáng và âm thanh, khác biệt hoàn toàn với đau răng. Đau đầu thường nặng lên khi hoạt động, ví dụ đi cầu thang. Caffein/ ergotamine được tiêu thụ nhiều được cho là các tác nhân của bệnh đau nửa đầu, nhưng hiện nay chúng được thay thế bởi triptans, như sumathriptan và rizatriptan. Lưu ý: Đau nửa đầu có thể giảm bớt một phần hoặc toàn phần với việc sử dụng các chất chống viêm không steroid như điều trị đau răng.
Đau đầu dạng huyết áp là rối loạn đau đầu thường xảy ra với tỉ lệ cao (41%96%). Quan điểm cơn đau dạng huyết áp được thể hiện như đau răng không có trong y văn, do bản chất của cơn đau đầu dạng huyết áp chưa được định nghĩa sáng rõ. Một số nghiên cứu cho rằng cơn đau đầu dạng huyết ấp có thành phần chính cơ xương khớp, trong khi đó những người khác lại bác bỏ. Cơn đau dạng huyết áp thường là dạng đau khoác loại với các cơn đầu đầu tương tự do cơ chế sinh bệnh học cho chấy nó có dạng thức tương tự với cơn đâu cơ xương hàm mặt hay rối loạn khớp thái dương hàm (TMDs).
Đau đầu cụm và các TACs khác là các rối loạn mạch thần kinh hiếm gặp thường là đau một bên và được định nghĩa là cơn đau có ít nhất một hội chứng tự động cùng một bên của cơ thể, như nghẹt mũi, chảy nước mũi, chảy nước mắt, phù mí mặt, sưng hốc mặt, phù mặt, sa mí mắt,hẹp đồng tử xuất hiện cùng với đau. Các khía cạnh chính phân biệt rối loạn đau đầu với nhau là thời gian kéo dài và tần suất xảy ra các cơn đau, cũng như giới thường bị tác động.
Đau đầu cụm phổ biến nhất trong nhóm, thường xảy ra nhiều gấp 4 lần ở nam so với nữ, khoảng cách hai lần đau từ 15 phút tới 2h và thường xảy ra khoảng 8 đợt mỗi này cho tới 2 ngày 1 lần. Các cơn đau xuất hiện theo cụm, với các chu kỳ hoạt động từ 2 tuần tới 3 tháng, đó là lý do vì sao chúng mang tên như vậy. Loại bỏ cơn đau bằng cách hít 10’ 100% oxy là cách chẩn đoán đau đầu dạng cụm; ergotamin đặt dưới lưỡi và supatriptan là các điều trị cấp hiệu quả với đau đầu cụm cấp.Đau nửa đầu cực phát, tỉ lệ 3:1 phụ nữ có các đặc điểm giống với đau đầu cụm nhưng có tuần suất nhiều hơn 5/ngày và kéo dài 2-30’. Rối loạn đau đầu này có đáp ứng 100% với idomethacin nhưng cũng có trơ với các điều trị khác, do đó cần có chẩn đoán chính xác từ bác sĩ có kinh nghiệm.
Từ góc nhìn nguyên nhân không do răng, đau đầu cụm và hầu hết các TACs khác được ghi nhận trong y văn là có gây đau răng không do răng. Sự cạnh tranh các khía cạnh tự động, như mất màu hoặc sưng phồng ở hàm trên phía trước có thể là chẩn đoán cho áp xe răng. Điều quan trọng là ghi nhận các cơn đau đầu thần kinh mạch thường có xu hướng theo đợt với sự nghỉ hoàn toàn giữa hai đợt, trong khi đau răng thường có cơn đau kéo dài giữa hai đợt kịch phát. Tác động lên răng có thể không tăng đau rõ nét nhưng tăng một sự khó chịu nhẹ do mô trở nên rất nhạy cảm. Gây tê tại chỗ không thể dự đoán được trong các trường hợp này. Xử lý của các nhà lâm sàng là xác định dạng đau không do răng và sau đó chuyển sang bác sĩ chuyên khoa. Các rối loạn thần kinh mjach khác không được phân loại cũng có thể gây ra các cơn đau răng không do răng, ví dụ như đau đầu ho. Không nhất thiết bác sĩ phải tập trung vào các cơn đau hàm mặt để đưa ra chẩn đoán đặc biệt nhưng cần nhận thức rằng khía cạnh tăng nhạy cảm ở các bệnh nhân có rối loạn đau đầu tăng cao và khiến việc chẩn đoán phân biệt đau răng không do răng không dễ dàng.