1. Chỉ định có liên hệ đến tình trạng răng
– Răng có thân và chân răng bị phá hủy lớn, mất hết giá trị chức năng và không thể tái tạo được,
đây là chỉ định thông thường và rộng rãi nhất được cả bệnh nhân và thầy thuốc cùng chấp nhận
– Răng bị thối tủy, tủy viêm cấp tính hay mạn tính không phục hồi mà không điều trị nội nha
được, trường hợp này bao gồm cả những răng bị thất bại trong điều trị nội nha do có cấu trúc chân
răng bất thường.
– Răng bị gãy quá sâu dưới nướu không thể phục hồi được.
– Răng có tổn thương quanh chóp không thể chữa lành bằng phương pháp bảo tồn hay phẫu
thuật.
– Răng bị bệnh nha chu nặng, tiêu xương quá nhiều làm răng bị lung lay quá mức gây trở ngại
cho việc thực hiện chức năng hay làm cản trở việc lành thương ở vùng xung quanh.
– Răng sữa đến thời kỳ thay thế còn tồn tại quá lâu trong khi răng vĩnh viễn thay thế đã mọc và
mọc ở vị trí bình thường.
– Răng mọc lệch gây tổn thương cho mô mềm và không kéo lại đúng chỗ được nhờ can thiệp
chỉnh hình. Ví dụ như khi răng khôn hàm trên mọc lệch ra phía ngoài có thể gây chấn thương má.
– Răng ngầm, nếu xác định răng chỉ bị ngầm một phần và không thể mọc được do thiếu chỗ hay
có nguy cơ ảnh hưởng đến răng bên cạnh, gây biến chứng,... nên đề ra chỉ định nhổ phẫu thuật. Tuy
nhiên không nên can thiệp nếu răng còn ngầm sâu hoàn toàn trong xương ở những bệnh nhân trên 35
tuổi và chưa gây biến chứng.
– Răng gây tổn thương cho mô mềm nếu không nhổ sẽ không hồi phục tổn thương.
– Răng gây biến chứng viêm tại chỗ: viêm xương, viêm xoang, viêm mô tế bào,... mà không điều
trị bảo tồn được.
2. Chỉ định phục hình
– Răng không có giá trị chức năng, thậm chí còn gây trở ngại làm mất thăng bằng của phục hình
sau này.
– Răng gây ảnh hưởng xấu đến thẩm mỹ cho bệnh nhân như bị nhiễm sắc, đổi màu, dị dạng hay
hô quá mức. Mặc dù có nhiều can thiệp có thể giúp cải thiện thẩm mỹ như chỉnh hình, phục hình
nhưng bệnh nhân có thể chọn lựa giữa phương pháp điều trị bảo tồn và nhổ răng.
3. Chỉ định chỉnh hình
– Răng dư gây mất đối xứng cung hàm.
– Răng lệch gây ảnh hưỡng thẩm mỹ và chức năng mà không kéo lại về đúng vị trí trên cung
hàm.
– Răng nhổ để tạo khoảng cách cho phép di chuyển các răng còn lại ở vị trí thẩm mỹ hơn:
thường nhổ răng cối nhỏ thứ nhất hàm trên hay hàm dưới trong trường hợp điều trị hô.
– Răng nhổ để đề phòng và hạn chế sai lệch khớp cắn trong tương lai.
4. Chỉ định có liên quan đến bệnh toàn thân
– Răng gây khởi phát hay làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh lý toàn thân như: bệnh lý tim
mạch, thấp tim, dị ứng,... cơ chế gây ảnh hưỡng có thể do: vi khuẩn, nhiễm độc, kích thích, dị ứng,...
Tuy nhiên cần thận trọng khi đề ra chỉ định nhổ răng vì rất khó xác định mối liên hệ nhân quả giữa
răng nguyên nhân và bệnh lý ở xa.
– Răng cần nhổ trước một số điều trị đặc biệt như: phẫu thuật tim, xạ trị vùng đầu, mặt, cổ,...