CÁC KỸ THUẬT XÁC ĐỊNH CHIỀU DÀI LÀM VIỆC

Download

CÁC KỸ THUẬT XÁC ĐỊNH CHIỀU DÀI LÀM VIỆC
3.1. KỸ THUẬT X-QUANG
X-quang là một công cụ không thể thiếu trong quá trình chẩn đoán, điều trị và đánh
giá sau điều trị nội nha. X-quang có thể quan sát thấy được hình dạng răng và cấu
trúc quanh chóp trước khi điều trị.
- Phương pháp xác định chiều dài làm việc bằng X-quang theo mô tả của Ingle:
+ Ước lượng chiều dài làm việc bằng cách đo trên một phim gốc răng chụp đúng
đầu tiên
+ Đặt một cây trâm size 15 hoặc lớn hơn với chiều dài làm việc đã ước lượng ở
trên và chụp một phim X-quang thứ hai.
+ Nếu đầu của cây trâm nằm trong 1mm xung quanh vị trí lý tưởng thì chiều dài
nói trên có thể chấp nhận được và được xem là chiều dài của răng.
+ Nếu như đầu trâm chênh lệch 2mm hoặc hơn thì cần đặt lại trâm và chụp lại một
phim khác để xác định lại chiều dài làm việc


- Một số lưu ý:

+ Phương pháp này thường cho những kết quả có thể chấp nhận được nếu tủy răng
bị viêm nhưng vẫn còn sống.
+ Trường hợp tủy răng hoại tử, đặc biệt là có sự hiện diện của thấu quang quanh
chóp rõ rệt và/hoặc khi bệnh nhân bị đau thì tính chính xác của phương pháp Xquang vẫn còn tranh cãi.
+Mức độ thành công của phương pháp sẽ tùy thuộc vào hai yếu tố:
(1) Độ chính xác của phim: phim cần được chụp đúng góc độ, chụp lại nếu thấy
hình ảnh bị ngắn hoặc dài hơn.
(2) Đảm bảo rằng trâm không di chuyển trong quá trình thực hiện
+ X-quang kỹ thuật số có nhiều ưu điểm hơn so với X-quang truyền thống trong
việc xác định chiều dài làm việc.
+ Trong các nghiên cứu so sánh giữa kỹ thuật chụp phim song song và kỹ thuật
chụp phim phân giác, các tác giả nhận thấy rằng:
(1) Kỹ thuật chụp phim song song sẽ cho kết quả đo lớn hơn so với kết quả thực.
Nếu sử dụng phương pháp chụp này, chúng ta nên dùng thiết bị song song ghép đôi
để phim trước điều trị và phim sau khi đặt trâm tương tự nhau, nhằm cung cấp một
kết quả đo chính xác hơn.
(2) Kỹ thuật chụp phim phân giác, khoảng cách của trâm trên phim tới điểm chóp
răng sẽ ngắn hơn vị trí giải phẫu thật sự của trâm là 0.7mm.
- Một số nhược điểm của phương pháp này:
+ Bệnh nhân tiếp xúc với bức xạ, nhất là khi phim cần chụp nhiều phim.
+ Cung cấp hình ảnh hai chiều cho một cấu trúc có hình dạng ba chiều trong không
gian
+ Không thể phân biệt được các vị trí lỗ chóp - lỗ thắt chóp - chóp răng trên Xquang
+ Nhiều cấu trúc giải phẫu có thể chồng lên nhau (xương gò má có thể chồng lên
chóp răng của răng cối lớn thứ nhất và thứ hai hàm trên, chân ngoài có thể chồng

lên chân trong ở những răng cối nhỏ hoặc răng trước với hai ống tủy)
+ Những bệnh lý làm thay đổi cấu trúc giải phẫu chóp răng và độ cản quang làm
cho việc xác định chiều dài làm việc gặp khó khăn.
+ Đòi hỏi kỹ thuật viên chụp X-quang có một số kinh nghiệm và kỹ năng nhất
định.
- Một số lưu ý trong kỹ thuật chụp X-quang:
+ Khi đầu ống chụp X-quang đi chuyển về bất kỳ hướng nào thì trâm và cấu trúc
giải phẫu nằm về phía trong cũng sẽ di chuyển cùng hướng với đầu ống chụp, còn
các cấu trúc phía ngoài sẽ di chuyển theo hướng ngược lại.
Do đó, nếu đầu chụp di chuyển một góc về phía gần hoặc xa thì các cấu trúc bên
ngoài sẽ di chuyển theo chiều ngược lại, tức là sẽ di chuyển về phía xa hoặc gần
(theo thứ tự này).
+ Trong hầu hết các trường hợp, di chuyển đầu chụp một góc 20 đến 30 độ sẽ giúp
thấy được các cấu trúc giải phẫu bị che khuất.
+ Quy luật này đúng nếu áp dụng trên mặt phẳng dọc lẫn mặt phẳng ngang.
- Cách khắc phục nhược điểm do bị chồng cấu trúc trên phim X-quang:
+ Răng một chân:
Việc xác định chiều dài làm việc ở răng một chân thường khá đơn giản,
Đặt phim song song với đầu ống chụp phim.
Rất hiếm khi có cấu trúc giải phẫu nào chồng lên chân răng trong trường hợp này.
+ Răng nhiều chân:
Các cấu trúc giải phẫu hiện diện có thể chồng lên trâm và cản trở việc xác định
chiều dài làm việc. Chẳng hạn như chân ngoài và chân trong của các răng trước
(răng có hai ống tủy hoặc hai chân răng), xương gò má và chóp các răng cối có thể
chồng lên nhau.
Sử dụng kỹ thuật chụp phim song song và dịch chuyển ống chụp theo những góc
hằng định. Chẳng hạn như dịch chuyển đầu ống chụp phim một góc nhẹ 20 đến 30

độ theo chiều dọc hoặc ngang thì có thể thay đổi vị trí chân răng và các cấu trúc
giải phẫu khác, điều này nhằm xác định được chiều dài làm việc.
3.2. PHƯƠNG PHÁP ÁP DỤNG MÁY ĐỊNH VỊ LỖ CHÓP ĐIỆN TỬ
Phương pháp dùng máy định vị lỗ chóp điện tử nhằm xác định chiều dài làm việc
đã được sử dụng hơn 40 năm qua.
- Các thiết bị làm việc dựa trên nguyên tắc: điện trở giữa màng nha chu và mô
mềm của miệng là hằng định và bằng 6.5kilo-ohms.
- Gần đây, các thiết bị loại điện trở đã được thay thế bằng loại hoạt động dựa vào
trở kháng và tần số, với độ chính xác lên đến 90% trong phạm vi sai số 0.5mm.
- Máy định vị chóp có thể hỗ trợ X-quang khi chóp răng bị các cấu trúc giải phẫu
khác che khuất. Bên cạnh đó, nó còn có khả năng phát hiện lỗ thủng chân răng, gãy
chân răng, vết nứt, nội tiêu hoặc ngoại tiêu. Hỗ trợ đắc lực cho việc chẩn đoán trên
lâm sàng.


3.3. PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG CÔN GIẤY
- Phương pháp này có thể áp dụng để xác định điểm cuối cùng nhất của ống tủy
nếu như ống tủy khô, không còn dịch. Lúc này các mô bị viêm sẽ làm ẩm đầu của
côn giấy tại vị trí đổ ra của ống tủy.

- Nếu ống tủy chảy máu nhiều hoặc chất lượng côn giấy không tốt (không được
nén chặt) thì phương pháp này sẽ không cung cấp được vị trí thắt chóp chính xác.
- Nó là một phương pháp khá đơn giản và có thể hữu ích trong việc dự đoán và xác
định WL do không làm tổn thương mô quanh chóp cũng như không ảnh hưởng tới
sự lành thương vùng chóp.
- Tuy nhiên, phương pháp này chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, không có bằng
chứng khoa học nào chứng
minh tính chính xác của nó và không được sử dụng
thường quy trên lâm sàng.


3.4. PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG CẢM GIÁC TAY
- Cảm giác tay cũng là một kỹ thuật rất mang tính chủ quan. Vì việc cảm giác rằng
cây trâm dừng di chuyển có thể không xác định đúng vị trí thắt chóp.
- Hạn chế của phương pháp do:
+ Những bất thường về hình thái, loại răng và tuổi bệnh nhân thường dẫn đến giá
trị chiều dài ngắn hơn
+ Sự tiêu vùng chóp bệnh lý hoặc lỗ chóp rộng ở răng chưa trưởng thành dẫn đến
chiều dài làm việc dài hơn.
- Để hạn chế sai số, ta nên làm loe trước miệng ống tủy để loại trừ những cản trở ở
phần trên của ống tủy.
- Tài liệu cung cấp rất ít thông tin về phương pháp này; tuy nhiên, kỹ thuật dùng

 

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ CHIỀU DÀI LÀM VIỆCViệc quyết định điểm kết thúc chiều dài làm việc trong điều trị nội nha gây ra
nhiều tranh cãi. Xác định hình thái lâm sàng ống tủy phần chóp là điều khó nhất.
Việc tồn tại của một AC có ý nghĩa về khái niệm nhiều hơn là thực tế. Một số
nghiên cứu báo cáo rằng một AC đơn lẻ truyền thống hiện diện ít hơn một nửa các
trường hợp, đặc biệt khi có nhân tố tiêu chân răng hoặc bệnh lý vùng quanh chóp.
Ống tủy phần chóp thuôn hơn, hoặc các thành song song với nhau, hoặc ống tủy có
nhiều vị trí thắt chóp. Một số tác giả vì vậy đề nghị điểm kết thúc như sau: điểm
cách chóp 1mm khi không có tiêu xương hoặc tiêu chân răng xảy ra; cách chóp
1,5mm khi chỉ có tiêu xương xảy ra; và cách chóp 2mm khi có cả tiêu xương và
tiêu chân răng xảy ra.
Do việc xác định AC và AF trên lâm sàng rất khó khăn, một số nhà nghiên cứu
cho rằng chóp răng trên X-quang là một điểm tham chiếu đáng tin cậy hơn. Các tác
giả này để nghị điểm kết thúc chiều dài làm việc trong điều trị nội nha là trong
khoảng 3mm từ chóp răng X-quang, tùy thuộc vào chẩn đoán bệnh lý tủy. Trường
hợp tủy sống, các bằng chứng lâm sàng và sinh học cho thấy điểm kết thúc chiều
dài làm việc cách chóp răng X-quang từ 2 đến 3 mm. Việc làm này để lại một phần
tủy sót giúp ngăn ngừa vật liệu trám xâm nhập vào mô quanh chóp. Khi tủy hoại
tử, vi khuẩn và sản phẩm của chúng có thể hiện diện trong ống tủy vùng chóp và
cản trở việc lành thương. Các nghiên cứu chỉ ra rằng trong những trường hợp này,
tỉ lệ thành công cao hơn nếu điểm kết thúc nằm cách chóp răng trên X-quang trong
vòng 2 mm. Khi điểm kết thúc nằm tại điểm ngắn hơn 2 mm so với chóp răng trên
X-quang hoặc đi quá so với chóp răng trên X-quang thì tỉ lệ thành công giảm
xuống 20%. Đối với trường hợp điều trị tủy lại, điểm kết thúc nên cách chóp răng
X-quang 1 đến 2 mm để tránh dụng cụ và vật liệu tràn qua mô quanh chóp.
Các nhà nghiên cứu khác khi đánh giá chóp răng và mô quanh chóp sau điều trị
nội nha lại kết luận rằng tiên lượng tốt nhất khi điểm kết thúc nằm tại AC và tiên

14
lượng xấu nhất khi điều trị vượt quá AC. Tiên lượng xấu thứ hai là khi điểm kết
thúc cách AC 2mm. Những điều này xảy ra với mô tủy sống và hoại tử và vi khuẩn
hiện diện vượt quá AF. Chất trám bít hoặc guttapercha (hoặc cả hai) trong mô
quanh chóp, ống tủy bên và phần chóp bị chia có thể gây nên phản ứng viêm rầm
rộ. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nhận thấy rất khó để xác định được AC trên lâm
sàng. Một số nhà nghiên cứu đề nghị rằng các nhà lâm sàng hoàn thành điều trị tại
hoặc quá chóp răng trên X-quang và trám bít tất cả phần chóp bị chia và các ống
tủy bên.
Xác định giới hạn sửa soạn và trám bít ống tủy tại vùng chóp vẫn đang là một
chủ đề tranh cãi chính trong điều trị nội nha. Tuy nhiên, máy định vị chóp điện tử
hiện đại là thiết bị đáng tin cậy có thể giúp nhà lâm sàng quyết định chiều dài làm
việc của ống tủy.

=> Việc xác định chiều dài ống tủy cần thực hiện với nhiều cách phối hợp:

Không có đánh giá nào cho sản phẩm này.

Viết đánh giá

Chú ý: Không sử dụng các định dạng HTML!
    Chưa tốt           Tốt

Sản phẩm Liên quan (4)

© Copyright 2019-2024 Big Dental.

Đăng ký nhận tin

Đăng ký email để nhanh chóng nhận được các thông báo về khuyến mại, chương trình giảm giá của chúng tôi

Địa chỉ

Big Dental

Dr San