Nguyên nhân
Tiêu xương răng có thể là kết quả của bệnh loãng xương hoặc bệnh nha chu.
1- Bệnh loãng xương: Mật độ khoáng xương (BMD) thấp, kết quả của quá trình chuyển hóa xương không cân bằng gây ra tiêu xương với tốc độ nhanh hơn so với cơ chế sản xuất xương của cơ thể. Lúc này tiêu xương răng xảy ra đồng thời với loãng xương toàn cơ thể và cần có biện pháp khắc phục tổng thể.
Loãng xương và phân loại loãng xương
Theo Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization; WHO), loãng xương chỉ hiện tượng giảm độ dày của xương làm cho xương dễ bị gãy. Có hai loại loãng xương:
Loãng xương loại I(loãng xương sau mãn kinh) thường gặp ở phụ nữ sau thời kỳ mãn kinh (khi nồng độ hormon estrogen giảm mạnh). Quá trình này làm xương bị mất dần các thành phần cấu tạo. Loại loãng xương này hay gặp ở phụ nữ khoảng 50-70 tuổi. Kết quả cuối cùng thường là giảm lượng xương xốp(nằm bên trong lớp vỏ xương chắc), giảm sức chống đỡ của xương (trước tiên và rõ nhất ở thân các đốt sống và xương cổ tay).
Loãng xương loại II hay còn gọi là loãng xương tuổi già (senial osteoporosis) thường sảy ra ở tuổi sau 70. Phụ nữ chịu ảnh hưởng nhiều hơn nam giới. Loại này có hiện tượng giảm cả lượng xương xốp lẫn xương chắc và thường gây ảnh hưởng đến xương chậu và các đốt sống.
Có sự giao thoa giữa hai loại loãng xương. Loại I có thể phòng được nhờ liệu pháp thay thế hormon estrogen. Ngoài xác định bệnh nhân bị loãng xương loại I hay loại II, các chân đoán còn phải được tiến hành để xác định bệnh nhân đã biểu hiện các triệu chứng thứ cấp (triệu chứng cấp II) do loãng xương gây ra hay. Các kết quả nghiên cứu cho thấy khoảng 20% phụ nữ bị loãng xương ở các mức độ khác nhau và 40% số người bị loãng xương do các quá trình bệnh lý khác như ưu năng tuyến giáp trạng (hyperthyroidism), bệnh bạch cầu (lymphoma).
Có người cho rằng nếu kết quả chẩn đoán cho rằng bạn có dấu hiệu của loãng xương thì có thể coi đó là một tin vui vì nó chứng tỏ bạn có cơ hội áp dụng các biện pháp phòng không cho bệnh tiến triển và cả điều trị bệnh.
Tuy vậy, chúng ta chưa có đủ biện pháp để khống chế hoàn toàn được chứng bệnh này.
Một số biểu hiện của loãng xương
Bản thân loãng xương không gây đau cột sống. Tuy nhiên, loãng xương làm cột sống suy yếu nên không giữ được vai trò là cột trụ cho cơ thể và dần dần không chịu được bởi những tác động từ bên ngoài. Một chấn thương nhẹ cũng có thể làm gãy xương. Gãy xương là một trong những biểu hiện của loãng xưong. Nếu loãng xương trầm trọng, bệnh nhân có thể bị đau nhiều và đôi khi bị liệt.
Một số người bị loãng xương trầm trọng có thể bị thay đổi hình dạng (biến dạng xương và hình dạng cơ thể), ốm đau và đôi khi chết vì bệnh.
Cơ chế của loãng xương và các yếu tố ảnh hưởng
a.Cơchế của loãng xương:
Khi còn trẻ, tốc độ tạo xương lớn hơn tốc độ huy động chất khoáng từ xương. Sự tạo xương thường đạt tới đỉnh điểm ở khoảng 30 tuổi. Sau thời kỳ này quá trình phân hủy cấu trúc xương cũ diễn ra mạnh hơn quá trình tạo mô xương nới làm mất dần cấu trúc xương.
Giai đoạn đầu của thời kỳ mãn kinh, phụ nữ bị mất dần một lượng tổ chức xương nhất định hàng năm như sau:
Xương xốp: mất khoảng 1%/năm
Xương chắc: khoảng 0.5%/ năm.
Các phần cấu tạo của xương dài
Estrogen đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì độ bền của xương vì nó giúp cơ thể duy trì quá trình tái tạo ở mức thấp (lưu ý rằng trong quá trình tái tạo này lượng xương mới tạo ra ít hơn lượng bị mất đi). Có hai loại tế bào đóng vai trò quan trọng trong quá trình tái tạo này: (1) các tế bào hủy xương (osteoclasts) hay tế bào ăn xương (bone-eating cells) và các tế bào tạo xương (osteoblasts)hay bone-forming cells. Nếu thiếu estrogen, các tế bào hủy xương có cơ hội hoạt động và quá trình tạo xương mới không bù đắp được dẫn đến xương bị mỏng đi mà giảm độ chắc.
Vì thế, ở thời kỳ mãn kinh tỷ lệ mất xương tăng đến 2 -3 %/năm. Sau 8-10 năm, tỷ lệ mất xương trở lại 0.5% đối với xương xốp và 1% đối với xương chắc.
b.Cácyếutố ảnh hưởng đến duy trì tạo xương:
Yếu tố di truyền: Quyết định khoảng 75% thời điểm đạt tỷ lệ tạo xương cao nhất. Các gene mã hóa cho tổng hợp thụ quan với vitamin D (vitamin D receptor) và thụ quan đối với estrogen (estrogen receptor) ảnh hưởng đến thời điểm đạt mức độ hình thành xương lớn nhất.
Vận động và tập thể thao
Thói quen ăn uống (khẩu phần ăn)
Giới tính: Phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn nam giới. Do mãn kinh, tốc độ mất xương ở phụ nữ lớn hơn ở nam giới rất nhiều. Tuy nhiên nam giới cũng vẫn có thể bị mắc (tỷ lệ bệnh nhân loãng xương là nam giới chiếm 20%).
Người da trắng và người châu á có nguy cơ mắc bệnh cao hơn
Nhóm máu
Một số quá trình bệnh lý khác như rối loạn tiêu hóa, bệnh tuyến nội tiết
Các nguyên nhân dẫn đến loãng xương thứ cấp bao gồm: Rối loạn nội tiết (thiểu năng tuyến sinh dục, bệnh Cushings, ưu năng tuyến giáp trạng, ưu năng tuyến cận giáp trạng, bênh đái đường), rối loạn hoạt động tủy xương (ung thư đa dòng bạch cầu: myeloma,, ung thư di căn, uống nhiều rượu, bệnh mạch cầu, ung thư cơ quan tạo máu), rối loạn collagen disorders (quá trình hình thành xương không hoàn chỉnh, hội chứng Marfans), rối loạn dạ dày, ruột (rối loạn hấp thu, rối loạn dinh dưỡng), dùng thuốc: alimimum actacids, anti-convulsants, hóa liệu pháp, dùng glucocorticoid, liệu pháp thay thế hormon) .
Phòng loãng xương như thế nào?
Phòng loãng xương loại I: Có thể áp dụng các bện pháp như kiểm tra để xác định mật độ xương (kiểm tra xương cổ tay) và tiền hành sớm (thời kỳ 30 tuổi)
Nếu được chẩn đoán là có nguy cơ mắc loãng xương do di truyền (cụ thể là thời kỳ đạt đỉnh điểm về khối lượng xương sảy ra sớm) thì nên áp dụng các biện pháp phòng như tập thể thao, chú ý chế độ ăn và kiểm tra xương thường xuyên.
Thể dục và loãng xương: Tập aerobic (khoảng 20-30 phút/lầm, 3-4 lần/ngày). Các hình thức tập luyện khác như chạy bộ, đi bộ, leo cầu thang với độ cố sức khoảng 70-90% cùng với dùng 1.500 mg canxi/ngày có thể làm tăng mật độ xương sống.
Lưu ý: Những người mắc loãng xương hay có lượng xương thấp cần chú ý tư thế của các động tác tập và thể lực của bản thân (các động tác như uốn cong cột sống về sau, bẻ gập về trước, xoay cổ tay và bẻ các ngón tay nhiều khi nguy hiểm. Tư thế tập của người đã phát hiện chững loãng xương cần được bác sỹ góp ý để tránh gãy xương.
Ăn uống: Canxi có vai trò quan trọng để giữ độ chắc và sức chống chịu của xương nhưng các tài liệu cho rằng khoảng 70% dân số không được cung cấp đủ Canxi hoặc vitamin D (vitamin D có vai trò trong hấp thu và giữ canxi trong tổ chức xương). Lượng cannxi và vitamin D cần thiết ước tính như sau:
Phụ nữ 25-50 tuổi và phụ nữ sau thời kỳ mãn kinh (đang áp dụng liệu pháp thay thế hormon): 1000 mg canxi một ngày và 400 i.u vitamin D.
Phụ nữa có thai và phụ nữ đang cho con bú: 1500 mg canxi một ngày.
Phụ nữa sau mãn kinh dưới 65 tuổi và không dùng liệu pháp thay thế hormon: 1500 mg canxi và 400-800 i.u vitamin D.
Đàn ông 25-65 tuổi: 1000 mg canxi.
Tất cả mọi người (cả nam và nữ) trên 65 tuổi: 1500 mg canxi.
Canxi có mặt trong rất nhiều loại thực phẩm như sữa, sữa chua, phomat, nhiều loại rau, ngũ côc, đậu và một số loại cá...
Các loại thức ăn khác nhau có khả năng cung cấp canxi với hàm lượng khác nhau. Canxi bổ sung cũng có trên thị trường nhưng nếu bạn dùng chúng tốt nhất nên tham khảo ý kiến của các bác sỹ, dược sỹ.
Vitamin D từ cá, gan, sữa, nước cam, ngũ cốc. Vitamin D bổ sung cũng có mặt trên thị trường.
Khẩu phần đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo lượng canxi và vitamin D thu nhận và từ đó phòng chứng loãng xương. Nếu khẩu phần giàu protein và natri hay cả hai sẽ làm tăng sự mất canxi theo nước tiểu và làm giảm lượng canxi của cơ thể.
Cũng nên biết rằng nếu lượng canxi đến mức 2000 mg trong ngày sẽ làm tăng nguy cơ tổn thương thận và tăng nguy cơ mắc sỏi thận. Vì vậy những người đã có triệu chứng sỏi thận hay đã từng mắc sỏi thận nên hỏi bác sỹ trước khi muốn dùng bổ sung canxi để phòng loãng xương.
Đo mật độ xương để chẩn đoán loãng xương
Một số chuyên gia cho rằng nếu bạn đã trên 65 tuổi hay chưa đến 65 tuổi nhưng đã qua giai đoạn mãn kinh và có nguy cơ mắc chứng loãng xương nên kiểm tra mật độ xương 1-2 năm một lần.
Dựa trên kết quả đo mặt dộ xương và những kết quả xét nghiệm khác, bác sỹ sẽ khuyên bạn nên dùng biện pháp hay loại dược phẩm nào để làm giảm tôc độ mất xương và phòng loãng xương
Ai có nguy cơ bị loãng xương?
Phụ nữ từ 45-50 tuổi có nguy cơ cao đối với loãng xương loai I. Nếu bạn có nguy cơ, bạn nên khám kiểm tra mật độ xương sớm và áp dụng các biện pháp phòng bệnh.
Tuổi cao (đặc biệt là những người trên 65 tuổi, cả nam và nữ)
Những phụ nữ xương nhỏ có nguy cơ măc loãng xương cao hơn
Kinh nguyệt và mãn kinh: Mãn kinh làm tăng nguy cơ loãng xương
Mãn kinh sớm hoặc tắt kinh trước thời ký mãn kinh càng làm tăng nguy cơ mắc loãng xương.
Thiểu năng tuyến sinh dục (dịch hoàn nhỏ, thiếu testosteron) ở nam giới.
Thói quen sinh hoạt: thường ăn thức ăn có ít Canxi hoặc vitamin D hay thiếu cả hai; ít vận động và ít tập thể dục, nghiện rượu, hút thuốc.
Các bệnh mãn tính và dùng thuốc điều trị: Một số loại thuốc có thể làm tổn thương xương và dẫn đến "loãng xương thứ cấp". Loại loãng xương này gặp ở 20% bệnh nhân loãng xương nữ và 40% bệnh nhân nam. Những thuốc có thể gây tác dụng phụ này như thuốc điều trị rối loạn nội tiết (điều trị ưu năng tuyến giáp trạng), thuốc điều trị suy tủy, rối loạn collagen, bệnh dạ dày ruot. Dùng các glucocortocoid trong thời gian dài để chữa các bệnh hen, viêm khớp có thể làm tổn thương xương. Vì vậy bệnh nhân loãng xương đang điều trị các bệnh này phải hỏi ý kiến bác sỹ để cân nhắc tình trạng của mỗi bệnh.
2.- Bệnh nha chu:
Đối với lĩnh vực răng hàm mặt nói chung thì nguyên nhân tiêu xương răng chủ yếu đến từ bệnh nha chu. Viêm nha chu mãn tính sẽ gây tổn thương đến các mô mềm xung quanh răng bao gồm dây chằng nha chu và cả xương răng nâng đỡ chân răng. Xương hàm được bảo tồn chính là thông qua áp lực kích thức từ nhai cắn. Khi áp lực này biến mất do khoảng trống mất đi chân răng thì xương hàm sẽ tiêu biến dần. Sau 3 tháng mất răng thì hiện tượng tiêu xương sẽ diễn ra. Sau 6 tháng, mật độ xương tiêu biến là 25%. Sau 1 năm, mật độ xương tiêu biến lên đến 45-60%, gây ra biến chứng với cơ mặt và xô lệch hàm.
Hậu quả
Tiêu xương răng lâu ngày sẽ dẫn đến những hệ lụy nguy hại:
- Xương hàm thoái hóa gây xô lệch răng toàn hàm, mất thẩm mỹ, thậm chí làm lung lay và gãy rụng các răng kề cận khoảng trống tiêu xương.
- Răng toàn hàm lạc ra khỏi vị trí chuẩn làm sai lệch khớp cắn khiến cho ăn nhai trở nên khó khăn, thậm chí gây đau. Khi cắn lại hai hàm không khớp nhau.
- Lão hóa sớm do xương hàm tiêu biến, các dây chằng và cơ mặt bị hóp vào trong.
- Ảnh hưởng đến xoang hàm, một số người còn có biểu hiện đau đầu do mất răng.
- Gây khó khăn cho việc trồng răng và phục hình răng thẩm mỹ khác (cấy ghép implant, làm cầu răng sứ, hàm tháo lắp...)
Điều trị
Tiêu xương răng không thể tự hồi phục nên điều trị tiêu xương bắt buộc phải nhờ đến can thiệp của phẫu thuật. Sau khi đánh giá về cả chất lượng lẫn mật độ xương hiện tại bằng cách sử dụng phim chụp X-ray hoặc chụp CT scan, bác sĩ nha khoa sẽ có chỉ định ghép xương, nâng xoang hợp lý giúp bạn. Có 2 phương pháp ghép xương răng bao gồm:
- Sử dụng xương tự thân: Thủ tục này bao gồm việc lấy đi một phần nhỏ xương từ các vị trí khác trên cơ thể, thường là xương hông, xương hàm, xương cằm, xương sọ...để thay thế cho phần xương tiêu biến.
- Sử dụng xương nhân tạo: Thủ tục này bao gồm việc sử dụng xương sinh học có thành phần chính là Beta-tricalcium photphate, có thể tự tiêu tan đồng thời kích thích xương tích hợp. Xương nhân tạo có xương khối, xương hạt và màng xương.
Kỹ thuật ghép xương chính bao gồm ghép xương khối, ghép xương bột, nẻ xương và nong xương. Bên cạnh đó trong một số trường hợp cần thiết đòi hỏi phải nâng xoang hàm trước khi ghép xương.
Hồi phục
Thời gian lành thương khi cấy ghép xương răng tự thân và xương răng nhân tạo tương tự như nhau.
Đối với cấy ghép xương tự thân, các mô xương sẽ nhanh chóng tích hợp và liền lại thành một khối.
Đối với cấy ghép xương nhân tạo, xương nhân tạo được ghép vào khoảng thiếu xương và tạo ra các khoang trống cho mô xương tự thân phát triển rồi xương nhân tạo tự tiêu tan. Với tốc độ xương tự thân phát triển trung bình 1mm/1 tháng thì cần khoảng 6 tháng xương sẽ phát triển với mật độ đầy đủ cần thiết cho phục hình Implant.